Phát sinh chủng loài Họ_Rồng_rộc

Các chi Plocepasser và Philetairus đôi khi được coi là thuộc họ Passeridae, nhưng Groth (1998)[1] đặt chúng vững chắc trong họ Ploceidae. Phân tích gần đây của De Silva et al. (2017)[2] cũng bao gồm cả Pseudonigrita. Chi thứ tư đôi khi được gộp trong Passeridae là Histurgops, chưa từng được đưa vào trong bất kỳ phân tích di truyền nào.

Tổ chức tổng thể ở đây dựa theo phân tích di truyền 7 gen bao quát rộng của De Silva et al. (2017)[2] với tham khảo các kết quả trước đó của Päckert et al. (2016)[3], Warren et al. (2012)[4], Prager et al. (2008)[5] và Groth (1998)[1].

Từng có nghi vấn về việc Amblyospiza có thuộc về họ Rồng rộc hay không, nhưng bắt đầu từ phân tích ND2 của Päckert et al. (2016)[3] thì điều rõ ràng là nó thuộc về họ này. Rồng rộc Compact (Ploceus superciliosus) ở đây được đặt riêng trong chi của chính nó (Pachyphantes). Cách thức làm tổ của nó là tương tự như của Amblyospiza, và người ta từng gợi ý rằng chúng có thể có quan hệ họ hàng gần. Tuy nhiên, dữ liệu barcode hạn chế của Sonet et al. (2011)[6] gợi ý rằng nó gần với Quela hơn.

Một phát hiện thú vị của Päckert et al. (2016)[3] và De Silva et al. (2017)[2]Ploceus không đơn ngành. Việc sắp xếp lại chi này chính xác như thế nào thì hiện tại vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng. De Silva et al. có lượng mẫu tương đối lớn của Ploceus, nhưng nó là một chi lớn và nhiều loài vẫn chưa được đưa vào phân tích.

Sonet et al. (2011)[6] lập barcode cho nhiều loài, nhưng không đưa ra cây phát sinh chủng loài. Laurent Raty đưa ra cây phát sinh (trong BirdForum), nhưng dữ liệu barcode là rất hạn chế và kết quả thu được không có hỗ trợ thống kê thực tế.[7] Khi so sánh với kết quả của De Silva et al. (2017)[2] thì cây của Raty có một số điểm kỳ dị. Tuy nhiên, các mối quan hệ gần giữa một số loài có một số ý nghĩa nhất định. Khi kết hợp với phân loại học truyền thống thì điều này cho phép tái gộp nhóm Ploceus. Theo đó, tên gọi Ploceus được giữ lại cho các loài châu Á. Hai loài rồng rộc Madagasca (P. sakalava và P. nelicourvi) do sự rẽ nhánh sâu nên tốt nhất cần tách ra thành chi Nelicurvius, với các loài Ploceus châu Phi hoặc là chuyển sang chi Malimbus hoặc tách ra như là chi Textor (cũng nghĩa là rồng rộc/thợ dệt). Mặc dù dữ liệu của Sonet et al. chỉ ra rằng rồng rộc cọ vàng (Ploceus bojeri) gần với Nelicurvius, nhưng do có nghi vấn đáng kể về điều này nên có lẽ tốt nhất nên gộp nó trong chi Textor.

Sử dụng Textor Temminck, 1825 (loài điển hình cucullatus) thay vì Hyphantornis xem trong Oberholser (1921a,b).[8][9] Oberholser (1921c)[10] cho rằng Textor Lichtenstein, 1823 là nomen nudum (tên gọi trần trụi) và không chiếm chỗ trước Textor Temminck, 1825. Textor đôi khi được gán cho Temminck 1827, và có thể đó là ngày tháng đã hiệu chỉnh cho Temminck 1828. Theo Oberholser (1921a)[8] thì Temminck đã sử dụng Textor từ năm 1825.

Trong đoạn này người ta hợp nhất Pseudonigrita vào Philetairus do chúng có quan hệ họ hàng gần, như chỉ ra bởi hiệu chuẩn thời gian trong De Silva et al. (2017, Hình 2)[2]. Brachycope cũng hợp nhất vào Euplectes dựa trên các dữ liệu barcode, và Anaplectes hợp nhất vào Malimbus theo dữ liệu của De Silva et al. (2017).[2]

Cuối cùng, cây phát sinh chủng loài của De Silva et al. (2017)[2] cũng cho thấy việc tách của fody Aldabra (Foudia aldabrana) ra khỏi fody Comoros (Foudia eminentissima) là phù hợp.

 Ploceidae 

Amblyospiza

Sporopipes

Histurgops

Philetairus

Plocepasser

Dinemellia

Bubalornis

Ploceus s.s. (rồng rộc châu Á)

Pachyphantes

Quelea

Foudia

Euplectes

Nelicurvius (Ploceus Madagascar)

Malimbus (+ Ploceus châu Phi)

Textor (Ploceus châu Phi)